Lịch sử: Erythromycin là kháng sinh đầu tiên thuộc nhóm macrolid được dùng rộng rãi nhất, bắt đầu sử dụng trên lâm sàng từ năm 1952. Cho tới những năm 1990, erythromycin và một macrolid dùng không thường xuyên là troleandomycin là 2 đại diện của nhóm này. Năm 1991, azithromycin và clarithromycin được tổng hợp và đưa ra thị trường, năm 1995 dirithromycin có mặt trên thị trường. Các thuốc mới xuất hiện này có tiến bộ rõ rệt so với erythromycin mặc dù giá đắt hơn. Roxithromycin là một macrolid còn đang được nghiên cứu.
Thuốc nhuận tràng và thuốc chống táo bón
Cơ sở: "Thuốc nhuận tràng", "thuốc chống táo bón", và "thuốc chống tiêu chảy" bao gồm các thuốc tác dụng lên đại tràng và một số thuốc tác dụng trên tiểu tràng. Thuốc chống táo bón cũng có thể quy vào nhóm "thuốc tẩy" hoặc "thuốc tẩy nhẹ". Thuốc tẩy là các thuốc giúp thúc đẩy nhanh quá trình loại bỏ phân chứa nước. Thuốc tẩy nhẹ có tác dụng tương tự thuốc tẩy nhưng ở mức nhẹ hơn. Như vậy, thuốc nhuận tràng có thể là thuốc tẩy hay thuốc tẩy nhẹ tùy theo dạng phân tống ra, tốc độ tác dụng của thuốc và liều dùng.
Thuốc gây tê tại chỗ
Lịch sử: trong nhiều thế kỷ, người Peru đã biết được tác dụng dược lý của lá cây erythroxylon coca, một loại cây bụi phát triển nhiều ở vùng núi Andes. Nhai hoặc ngậm loại lá này tăng cường cảm giác chịu đựng. Thân cây tần bì tiết ra một loại alkaloid hấp thu qua màng nhầy. Ngày nay loại alkaloid này được nhiều người biết đến vì nó là cocain. Alkaloid cocain tinh khiết được phân lập năm 1880
Các thuốc làm tăng co cơ
Tổng quan: các thuốc làm tăng co cơ, góp phần vào mục đích dược lực học và huyết động học làm tăng co bóp cơ tim, có thể được phân loại vào thành 1 trong 3 cơ chế dược lý cơ bản. Về mục đích của tổng quan này, các thuốc làm tăng co cơ sẽ được chia thành 3 loại sau. 1, glycosides tim, 2, các chất chủ vận thụ thể, 3, các chất inodilator hoặc các chất ức chế phosphodiesterase co cơ
Thuốc ức chế miễn dịch
Lịch sử: mặc dù việc cấy ghép ở người đã được thực hiện từ năm 1960, nhưng việc cấy ghép khác loại trở nên phổ biến hơn sau khi có cyclosporin vào năm 1983. Trước thời gian này, liệu pháp ức chế miễn dịch để ngăn ngừa thải loại cơ quan gồm liều toàn thân corticosteroid và azathioprin (ra đời năm 1968). Globulin chống bạch cầu cũng được dùng vào đầu những năm 1980 nhưng hiện nay được đưa vào phương pháp miễn dịch đặc hiệu hơn với các các thuốc như là kháng thể đơn dòng như muromonab-CD3, ra đời năm 1986.
Globulin miễn dịch
Lịch sử: năm 1940 "gamma globulin" (có nghĩa là IgE) được phân lập lần đầu tiên từ máu người bằng quá trình gọi là tách. Điều này thậm chí dẫn đến sử dụng globulin miễn dịch tiêm bắp (IMIGs) đối với miễn dịch thụ động để dự phòng và điều trị những bệnh do virus (ví dụ viêm gan A) và sau đó vào những năm 1950 để điều trị vô gamma globulin huyết. Globulin miễn dịch có thể tiêm tĩnh mạch (tức là IVIGs) được triển khai năm 1970 là một thuận tiện hơn, ít đau và là thay thế tác dụng nhanh cho IMIGs. Các quá trình tách ethanol ban đầu được dùng cho
Thuốc chống trầm cảm dị vòng
Lịch sử: thuốc chống trầm cảm dị vòng là một nhóm đa dạng hóa học và dược lý. Rất nhiều chống trầm cảm loại này (ví dụ amoxapine, maprotilidin và trazodon) đang được quan tâm là các thuốc thế hệ 3 hoặc 4. Vào thời điểm hiện nay, nhóm phụ quan trọng nhất của các thuốc chống trầm cảm dị vòng là các chất ức chế tái hấp thu đặc hiệu serotonin (SSKIs) đã làm nên cuộc cách mạng trong điều trị trầm cảm. Fluoxetin, công bố năm 1987 là chất đầu tiên của SSKIs.
Các chất chẹn H2
Lịch sử: sau khi thử nghiệm hơn 700 hợp chất, thuốc đầu tiên trên thị trường điều trị loét tiêu hóa tác dụng bằng cách đối kháng histamin ở tế bào thành vách, cimetidin, được phép bán ở thị trường vào 8/1977. Vào thời điểm đó, cimetidin đưa ra 1 tiếp cận mới trong điều trị bệnh loét tiêu hóa do acid. Trước đó liệu pháp chống loét bao gồm thuốc kháng acid kháng cholinergic và kháng muscarin. Hơn nữa, cimetidin hiệu quả hơn các thuốc này
Các thuốc gây mê thông dụng
Lịch sử: thuốc mê ether lần đầu tiên được bác sĩ nha khoa William T. G. Morton dùng tại Bệnh viện Đa khoa Masachusett vào năm 1846, sau đó, ether là thuốc mê đầu tiên được sử dụng rộng rãi. Nó có thể tồn tại ở dạng nguyên chất và dễ bảo quản. ở nhiệt độ phòng ether là một chất lỏng nhưng khi làm bay hơi và hít vào, thuốc gây mê mà không ức chế mạnh hô hấp và tuần hoàn. Một thuốc gây mê khác thường được sử dụng ở thời kỳ đầu là chloroform.
Các chất chẹn H1
Tổng quan: chất kháng histamin được giới thiệu lần đầu tiên vào đầu những năm 1940. Ngày nay, chất đối kháng thụ thể H1 nằm trong số những thuốc được kê đơn rộng rãi nhất. Nǎm 1988, doanh số bán ra của các chất kháng histamin cả kê đơn và không kê đơn làtrên 500 triệu USD. Sau khi tính cả các chế phẩm tổng hợp kháng histamin làm giảm sung huyết, con số này là gần 2 tỷ USD. Các chất đối kháng thụ thể H1