Lịch sử: từ 40 năm qua, đã diễn ra một cuộc cách mạng về liệu pháp thuốc điều trị vô sinh. Sự tương tác phức tạp của hormon với tế bào sinh sản ở phụ nữ mục tiêu của hầu hết các biện pháp can thiệp bằng thuốc, mặc dù một số thuốc có ích trong điều trị chứng giảm tinh trùng ở nam giới. Các thuốc gây rụng trứng được sử dụng lần đầu vào những năm 1950, và tiếp theo là đứa trẻ đầu tiên thụ tinh trong ống nghiệm (IVF ra đời)
Các alkaloid cựa lúa mạch
Lịch sử: các alkaloid cựa lúa mạch là những thuốc lâu đời được chiết xuất từ một loại nấm mọc trên lúa mạch đen và một số loại ngũ cốc khác. Tác dụng của cựa lúa mạch khi ăn trong thời kỳ mang thai đã được biết đến từ hơn 2000 năm nay, và cựa lúa mạch đã được dùng điều trị như một chất kích thích tử cung gần 400 năm trước. Các chế phẩm sử dụng trên lâm sàng bao gồm: ergonovin và methylergonovin
Các corticosteroid
Lịch sử: Mặc dù Addison mô tả lần đầu tiên căn bệnh ngày nay mang tên ông vào năm 1855, những gần 100 năm sau người ta mới thừa nhận sự tồn tại của các minerala corticoid (corticoid chuyển hóa muối) và glucocorticoid (corticoid chuyển hóa đường). Cushing đã mô tả hội chứng cường vỏ thượng thận vào năm 1932. Cho đến năm 1942, người ta đã chiết xuất hoặc tổng hợp được hàng chục glucocorticoid mặc dù mãi đến năm 1950 người ta mới tìm ra aldosteron,
Thuốc lợi tiểu
Lịch sử: thuốc lợi tiểu được chia thành thuốc lợi tiểu thiazid, thuốc lợi tiểu quai Henlé, thuốc lợi tiểu ống lượn xa hay lợi tiểu thải kali, thuốc lợi tiểu thẩm thấu, chất ức chế carbonic anhydrase. Trước khi công bố thiazid đầu tiên (chlorothiazid) năm 1957, chất ức chế cacbonic anhydrase và lợi tiểu thủy ngân là những thuốc lợi tiểu được dùng trên lâm sàng. Ngày nay, lợi tiểu thủy ngân không còn được sử dụng nữa do độc tính của thuốc và do đã có nhiều thuốc khác.
Thuốc tránh thai
Lịch sử và đặc điểm phân biệt: các thuốc tránh thai đường uống (viên tránh thai) thường là progestin đơn thuần hoặc phối hợp với estrogen. Chúng là dạng thuốc tránh thai hay được sử dụng nhất ở Mỹ. Các thuốc phối hợp có tác dụng tránh thai tốt hơn các thuốc dùng đơn thuần. Các chế phẩm chỉ có Progestin, hoặc "viên mini" phải dùng hàng ngày để duy trì hiệu quả. Tất cả các chế phẩm tránh thai phối hợp đường uống đều được xem là có hiệu quả như nhau, với tỷ lệ có thai trong dân cư nói chung là 0-6%
Các chất ức chế catechol-o-mathyl (comt)
Lịch sử: các chất ức chế catechol-O-mathyl transferase là những thuốc tương đối mới bổ sung cho những biện pháp điều trị bệnh Parkinson hiện có. Tolcapone được FDA cấp phép tháng 1/1998, và entacapon được cấp phép tháng 10/1999. Các chất ức chế COMT là một trong nhiều phương pháp được tập trung nghiên cứu để triển khai các chiến lược nhằm cải thiện việc điều trị bệnh Parkinson. Nhiều biến chứng do dùng levodopa dài ngày, như hiện tượng "mòn mỏi", được cải thiện khi bổ sung thêm các thuốc dopaminergic khác như chất ức chế COMT.
Các thuốc kích thích tạo máu
Lịch sử: cuộc cách mạng trong điều trị hỗ trợ cho các bệnh nhân ung thư xảy ra hồi những năm 1990. Một trong những độc tính thường thấy nhất ở bệnh nhân hóa trị liệu là ức chế tủy. Trước đây, tình trạng giảm bạch cầu trung tính khiến buộc phải giảm hoặc ngừng liệu pháp. Biến chứng nhiễm khuẩn do giảm bạch cầu trung tính, thường khiến bệnh nhân phải vào viện, rất hay gặp.
Các thuốc liên quan đến đông máu
Lịch sử: Heparin được phát hiện vào năm 1916. Sau đó ít lâu, năm 1924, dicumarol được xác định là tác nhân gây chảy máu ở gia súc ăn cỏ ba lá ngọt bị thối, và sau đó, năm 1948, một dẫn xuất coumarin là warfarin được tổng hợp để làm chất diệt loài gặm nhấm.
Các thuốc chống loạn nhịp nhóm IV
Tổng quan: việc công bố kết quả của thử nghiệm chống loạn nhịp tim vào năm 1989-1992 và các nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ tử vong tăng liên quan đến việc dùng thuốc chống loạn nhịp khiến giới y học phải đánh giá lại sự lựa chọn và sử dụng thuốc trong xử trí nhiều trường hợp loạn nhịp nặng. Kết quả là trong một số trường hợp (ví dụ loạn nhịp thất nguy hiểm) thuốc chống loạn nhịp được thay thế bằng cấy thiết bị khử rung.
Các thuốc chống loạn nhịp nhóm III
Tổng quan: việc công bố kết quả của thử nghiệm chống loạn nhịp tim vào năm 1989-1992 và các nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ tử vong tăng liên quan đến việc dùng thuốc chống loạn nhịp khiến giới y học phải đánh giá lại sự lựa chọn và sử dụng thuốc trong xử trí nhiều trường hợp loạn nhịp nặng. Kết quả là trong một số trường hợp (ví dụ loạn nhịp thất nguy hiểm) thuốc chống loạn nhịp được thay thế bằng cấy thiết bị khử rung.